Đại chiêu tự (Jokhang tempel) là ngôi chùa theo Phật giáo Mật Tông Tạng truyền nằm trong trung tâm phố cổ Lhasa, nằm trong danh sách di sản thế giới của UNESCO từ năm 2000 thuộc Lhasa, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Barkhor. Chùa nằm trên đường Bát Giác Nhai – lấy Đại Chiêu tự làm trung tâm.
Hồ muối ChakaChùa Jokhang - Chùa Đại Chiêu
Đại chiêu tự (Jokhang tempel) là ngôi chùa theo Phật giáo Mật Tông Tạng truyền nằm trong trung tâm phố cổ Lhasa, nằm trong danh sách di sản thế giới của UNESCO từ năm 2000 thuộc Lhasa, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Barkhor. Chùa nằm trên đường Bát Giác Nhai – lấy Đại Chiêu tự làm trung tâm.
Đối với người Tây Tạng đó là ngôi chùa linh thiêng nhất nước và là nơi diễn ra ngày hội chùa Đại Chiêu lớn nhất của người Tạng. Chùa do vua Tùng Tán Cán Bố xây vào thế kỷ thứ 7 (năm 647) khi vương triều này hưng thịnh nhất.
Đại Chiêu tự vốn tên Thần Biến tự (The House of Mysteries), xây dựng từ năm Vạn Lợi triều nhà Minh, tức là năm 1579. Chùa chính thức đổi tên thành Đại Chiêu Tự năm 1409 sau sự kiện Tông Khách Ba chiêu tập chúng phái phật giáo Tây Tạng cử hàng Đại Pháp hội tán thán Phật Thích Ca Mâu ni. Lúc bấy giờ, triều nhà Minh ban tên gọi "Chùa Hoằng Từ", cũng gọi là chùa Đại Chiêu.
Tương truyền, năm hoàn thành xây dựng chùa Đại Chiêu, Đức Đạt-lai đời thứ ba của Tây Tạng đã từ Tây Tạng đến Nội Mông để chủ trì Pháp hội khai quang pho tượng Phật bạc, sau đó, Phật sống Đạt-lai đời sau đều đã từng đến chùa Đại Chiêu giảng kinh truyền pháp, chùa Đại Chiêu đã trở thành chùa có sức ảnh hưởng lớn của khu vực Nội Mông, tín đồ bốn phương tấp nập đến hành hương.
Vào thế kỷ 11 - Ngài A Đề Sa (Atisha - 982-1054) [1] cũng từng thuyết Pháp tại chùa. Ngài là một đại sư người Đông Ấn đã góp phần truyền Phật giáo vào Tây Tạng và thuyết về Bồ Đề Tâm sáng lập trường phái Ca Đương gây ảnh hưởng rất lớn cho nền Phật giáo Tây Tạng, nhất là dòng Cách Lỗ của ngài Tông Khách Ba. Chùa nhiều lần bị quân Mông Cổ tấn công nhưng chùa sau nhiều năm vẫn giữ được nhiều nét nguyên vẹn.
Đến thời kỳ nhà Thanh, vua Khang Hy lại ra lệnh tu bổ chùa Đại Chiêu, còn dùng vàng ̣đúc bài vị có 4 chữ "Hoàng Đế Vạn Tuế" đặt trước pho tượng Phật Bạc. Từ đó, chùa Đại Chiêu đã trở thành một ngôi "chùa hoàng gia" và không mời phật sống đến nữa, địa vị tôn giáo và chính trị của chùa ngày càng cao, đã trở thành trung tâm giao lưu văn hóa giữa dân tộc Mông Cổ, Tạng, Hán lúc bấy giờ, phát huy vai trò quan trọng đối với chính trị xã hội, văn hóa Nội Mông, là chùa Phật nổi tiếng nhất ở miền Bắc Trung Quốc.
Chùa thờ tượng Minh Cửu Đa Cát Phật, tức Phật Thích Ca Mâu Ni Bát Tuế Đẳng Thân do công chúa Văn Thành mang theo từ quê nhà khi gả cho vua Tùng Tán Cán Bố. Còn bức tượng do công chúa Xích Tôn-(Nepal) mang theo lúc về làm vợ Tùng Tán Cán Bố đã bị hủy trong thời kỳ cách mạng văn hóa.
Bức tượng này làm hoàn toàn bằng bạc, pho tượng được đúc ở tư thế ngồi, cao gần ba mét, nặng 1,5 tấn nên chùa còn gọi là chùa Phật Bạc và là ngôi chùa Phật Bạc lớn nhất Trung Quốc. Chùa còn thờ Tông Khách Ba, Địa Tạng Vương bồ tát, điện thờ Hộ Pháp của phái Cách Lỗ. Hai con rồng uốn lượn trên hai cột thông thiên trước pho tượng phật tổ Thích-ca-mâu-ni được làm bằng bột giấy và bùn. Hai con rồng làm bằng đất, bên trong trống rỗng và không hề có một vết rạn nứt nào sau hơn bốn trăm năm thăng trầm lịch sử.
Tùng Tán Cán Bố - người có công xây dựng chùa Đại Chiêu
Kiến trúc của chùa là sự kết hợp của nghệ thuật kiến trúc của Ấn Độ, Nepal và Trung Quốc thời Đường.
Năm 1978 chùa được trùng tu và tu bổ và đón khách thăm quan và khách hành hương chính thức năm 1980. Hiện nay. Chùa Đại Chiêu không những là thánh địa phật giáo, còn là thắng cảnh chương trình nổi tiếng trong và ngoài nước và thu hút đông đảo Lữ khách tham quan.